12 Điều Mà Mọi Người Công Giáo Phải Trả Lời được
Thứ sáu, ngày 10 tháng hai năm 2012
Kính gửi đến quý độc giả bài sau đây để thêm chất liệu suy
nghĩ về đờisống đức tin chúng ta
Tác giả:
DEAL HUDSON
GLV
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
Tự do ngôn
luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó:
Khi dân chúng được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó
để nói những điều ngớ ngẩn. Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.
Có một ít điều
được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc đến, trong
khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng, chúng ta là
người Công Giáo có nhiệmvụ phải trả lời.
1. “Không có gì là chân lý tuyệt đối
cả. Ðiều đúng cho bạn chưa chắc đã đúng cho tôi.”
Người ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nóivà không có cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin,và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.
Nhưng hãy nhìn lại câu nói “Không có gì là chân lý tuyệt đối cả” một lần nữa. Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác, nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người — chính là điều mà những người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng cách đưa ra lập luận của họ.
Một vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, “Không có chân lý tuyệt đối nào cả,”và bạn thụivào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấmvào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng có thể đúng đối với bạn.
Khi đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: “Bao lâu bạn không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gìvà tin gì tùy ý.” Nhưng đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến?
Nếu câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với người khác. “Ðừng làm hại” chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái gì cao trọng hơn – một loại phẩm giá chung của con người. Nhưng câuhỏi lại là phẩm giá từ đâu đến.
Như bạn có thể thấy, càng đi sâuvào những câuhỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng quan niệm về lẽ phảivà chân lý không phải tùy ý, nhưng dựavào mộtvài chân lý cao quývà phổ quát ngoại tại — một chân lý được viết trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn , nhưng không thể chối rằng không có chân lý đó.
2.
Kitô giáo không hơn gì các tín ngưỡng khác. Tất cả mọi tôn giáo đều dẫn đến
Thiên Chúa.”
Nếu bạn không nghe đến câu nàyvài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng buồn là những người nói lên điều này thương lại là Kitô hữu (ít ra trên danh nghĩa).
Những trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi những lời xác nhận về Thiên Chúavà con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth là Thiên Chúa,và Người đã chếtvà sống lại — tất cả để chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân lýsống còn — một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.
Chỉ điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất.
Nhưng nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin MừngThánh Gioan.
“Thầy là
đường, sự thật,và sựsống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy.”Trong Kitô
giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ðúng là tất cả
các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý — số lượng thay đổi tùy theo tôn giáo.
Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theovà thờ phượng Thiên Chúa, chúng
ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?
Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này.
Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này.
3.
“Cựu Ướcvà Tân Ước trái ngược nhau ở nhiều chỗ. Nếu một Thiên Chúa toàn năng
linh hứngThánh Kinh, thì Ngài đã không để cho có sai lỗi.”
Ðây là một
luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất là
những websites vô thầnvà tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần ghi
rằng “Ðiều lạ thường vềThánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính là
những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa
thượng trí viết ra.”
Những câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu “mâu thuẫn” trongThánh Kinh. Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản. Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trongThánh Kinh theo thể văn mà các sách đó được viết. Xét cho cùng,Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại văn tự… lịch sử, thần học, thơ phú,và khải huyền,vv…. Nếu chúng ta đọc các sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ bị bối rối kinh khủng.
Và danh sách “các mâu thuẫn” trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ:
“Hãy nhớ
ngày Sabát,và giữ nó cách thánh thiện.” Xuất Hành 20:8 . So với
“Người thì cho rằng ngày này trọng hơn ngày
khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như nhau. Vậy mỗi người phải xác
tín trong thâm tâm mình.” Rom 14:5
Người vô thần
la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc đến
điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những
đòihỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những
luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là
điều hoàn toàn hợp lý.
Nếu nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải một lỗi sơ đẳng như thế.
Ðiều kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:
“…trái đất
mãi mãi trường tồn.”
Giảng Viên 1:4 So với:
“…các nguyên
tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đấtvà các công trình trên đó sẽ bị thiêu
huỷ.” 2 Phr 3:10
Vậy Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra.
Thí dụ Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tụcvà tôn giáo –và hẩu hết sách này viết theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như, “Bánh được làm cho vui,và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi,và tiền bạc giải quyết được tất cả” (GV 10:19).
Tuy nhiên, ở
cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả “sự khôn ngoan” ông
tặngvà bảo chúng ta “Kính sợ Thiên Chúa,và tuân giữ giới răn Ngài; vì đó là tất
cả nhiệmvụ của con người..” (12:13).
Nếu một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố cáo về sự khác biệt này)
Những “mâu thuẫn” khác giữ Cựuvà Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự. Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến thể văn,và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.
Không một Kitô hữu biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này.
4.
“Tôi không cần đến Nhà Thờ. Bao lâu tôi là một người tốt, chỉ có điều đó mới
đáng kể.”
Luận điệu này dược dùng thường xuyên,và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là “người tốt,” người đó thật sự ám chỉ rằng họ “không phải là một người xấu.” — người xấu là người sát nhân, hiếp dâm,và trộm cắp. Phần đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này,và đó là tư tưởng: Chùng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống Ðức Kitô lắm, phải không?
Nhưng bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa.Thánh Lễ là viên đá góc của đờisống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí TíchThánh Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đờisống cho người Công Giáo, là những người tin rằng bánhvà rượu trở nên Mìnhvà Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu nguyện.
Chúa Giêsu phán, “Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con Ngườivà uống máu Người, các người không có sựsống trong các người; ai ăn thịtvà uống máu Ta có sựsống đời đời,và Ta sẽ cho người ấysống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsuvà tin tườngvào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dựThánh Lễ.
Hơn nữa, bí tíchThánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những người ờ trong HộiThánh. Là phần tử của HộiThánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức Kitô trên thế gian, đờisống chúng ta liên hệ mật thiết với đờisống của người khác trong HộiThánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệmvụsống như những phần tử trung thành của nhiệm thể Ðức Kitô. Là “người tốt” mà thôi chưa đủ.
5. “Bạn không cần phải xưng tội với một linh mục. Bạn có thể đến thẳng cùng Thiên Chúa.”
Như một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành (họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một điều như thế… thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế, người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do để biện minh tại sao không làm thế..
Bí Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:
“Chúa
Giêsu lại bảo các ông, ‘Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai các con.’ Nói rồi, Người thổi hơivào các ôngvà bảo các ông, ‘Các con
hãy nhận lấy ChúaThánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha;
nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.’” (Ga 20:21-23)
Nên ghi nhận
rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ không
biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta
phạm.
Việc xưng tội
cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:
Có ai
trong anh em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của HộiThánh,và
hãy để họ cầu
nguyện trên người ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa;Và lời cầu
nguyện do đức tin sẽ cứu người bệnh;và Chúa sẽ nâng người ấy dậy,và nếu
người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu
nguyện cho nhau để được chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công
chính có hiệu lực rất lớn lao. (Gia 5:14-16)
Ðiều đáng quan
tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta là chỉ
xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng cách
xưng tội công khai.
Và lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là HộiThánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha). Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ – Thiên Chúavà HộiThánh.
Hãy nghĩ về xưng tội cach này. Thử tưởng tượng rằng bạnvào một tiệmvà ăn cắpvài món hàng. Sau đó, bạn áy náyvà hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác liên hệ; bạn phải trả lại món hàngvà đền bù cho hành động của bạn.
Ðối với HộiThánhcũng
thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúavà HộiThánh,
vì chúng ta có tội với cả hai.Và khi ngài công bố lời tha tội, thì sự tha thứ
chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.
6. “Nếu HộiThánh thật sự theo Chúa Giêsu, thì đã bán các nghệ thuật, tài sản,và các công trình kiến trúc lãng phí, mà cho người nghèo.”
Khi một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàngvà các hòm đầyvàng cất ở các xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuậtvà đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trươngvà phí phạm.
Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là “Ðiện Vatican” không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùngvào việc nghệ thuật, khoa học, điều hành công việc HộiThánh,và điều hành chung của điện. Có một số đông nhân viên của HộiThánhvà hành chánhsống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó thành trụ sở chính của HộiThánh.
Còn về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican coi đó như một “kho tàng không thể thay thế được,” nhưng không phải về diện tài chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này,và nếu ngài muốn, ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của ToàThánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho HộiThánh, mà ngược lại, TòaThánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này.
Sự thật của
vấn đề này là TòaThánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại sao lại giữ
những nghệ phẩm này? Vì tinvào một trong các sứ mệnh của HộiThánh
là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời
trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai —
nếu không thì những văn bản này không còn nữa — HộiThánhtiếp
tục bảo trì nghệ thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn
hóa sự chết ngày nay khi mà từ “văn minh” chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứvụ
truyền bá văn minh của HộiThánh
ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.
7. “Chống đối thực sự là điều tích cực, vì tất cả chúng ta phải có đầu óc cởi mở đối với những tư tưởng mới.”
Ngày nay có lẽ
bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trongvụ gương mù về lạm dụng tính
dục trong HộiThánh.
Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó có người đưa ra những tư tưởng
ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở cửa cho đống tính luyến ái làm
linh mục, v.v…). Nhiều người đổ tội cho HộiThánhvì
quá cứng rắn về đức tinvà không muốn thử những điều mới.
Sự thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu,và HộiThánh đã quan tâm đến chúng. Thực ra, HộiThánhđã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởngvà quyết định rằng tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúavà tư tưởng nào không. HộiThánh đã gạt ra hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin. Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay — tất cả các giáo hội đó đều một thời có “những tư tưởng mới” mà HộiThánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.
HộiThánhcó môt nhiệmvụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. HộiThánh không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án, nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyệnvà nghiên cứu đằng sau những gì phải tinvà phải giữ gìn là chân thật.
Ðiều này không
có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm gì. Luôn
luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về
chân lý — thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan giữa
giáo sĩvà giáo dân– tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức
Tin.
8. Nếu giải thích đúng,Thánh Kinh không lên án đồng tính luyến ái. Nhưng đúng hơn là chống lốisống bừa bãi – dù là đồng tính hay giữa nam nữ. Vì vậy, chúng ta không có lý do để chống liên hệ tình yêu đồng tính.”
Khi hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm đoán điều này cách tỏ tường trongThánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp tiến là cho rằngThánh Kinh — khi hiểu đúng — không cấm những hành vi đồng tính.
Nhưng luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođômvà Gômôra. Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:
“Nhưng khi
các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ
đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lótvà bảo: “Những
ngườivào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi.” Ông Lót ra
trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng,” rồi nói:”Thưa anh em, tôi xin anh
em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa
chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này,
xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đãvào trọ dưới mái nhà tôi.” Chúng đáp:”Xê ra!
Tên này là một kiều dân đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm
dữ với mày hơn là với những tên kia!” Họ xô mạnh ông Lótvà xôngvào để phá cửa.
Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lótvào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10)
Thông điệp của
đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn liên hệ
tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái ông,
nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội dân
chúng phạm — đó là các hành vi đồng tính luyến ái. Sự thật này được Tân
Ứớc xác nhận:
Như Sôđôm,
Gômôravà các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng trong
việc tà dâm,và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng
để làm gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7)
Nhưng không phải chỉ có những đoạn này trongThánh Kinh lên án
hành vi đồng tính. Cựu Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: “Ngươi không được nằm với đàn ông như
nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.” (Levi 18:22).
Và những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
“Vì lý do
đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những
liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên.Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ
tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với
đàn ông,và như thế chuốcvào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của họ.” (Rom1:26-27)
Thật khó vô
cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở đây không
chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưngThánh Phaolô
chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là “trái tự nhiên,”
“tồi bại”và “đồi bại”).
Các Kitô hữu cấp tiến bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái vớiThánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý củaThánh Kinh,và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.
9.
“Người Công Giáo nên theo lương tâm trong mọi sự… dù là phá thai, ngừa thai,
hay phong chứcthánh cho phụ nữ.”
Ðúng –Sách Giáo Lýnói rất thẳng, “Con người có quyền hành động theo lương tâmvà sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. “Không được cưỡng bách ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo ” (1782). Giáo huấn này là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do.
Nhưng điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có “một lương tâm được huấn luyện chu đáo.”
Sách Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:
“Lương tâm
luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnhvào lúc thích hợp cho con người làm
lành lánh dữ…. Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu theo
Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hútvà đón
nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe
tiếng Thiên Chúa đang nói” (1777).
Nói cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là “cái gì chúng ta cảm thấy đúng”; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúavà HộiThánh. Và để phán đoán, chúng ta có nhiệmvụ họchỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách Giáo Lýcó trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng —và nó quan trọng thế nào trong việc quyếtb định đúng.
Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm: “Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta làm” (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng ta làm saivà cần được tha thứ tội lỗi chúng ta.
Bằng cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những gì là đúng. “Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự dovà đem lại bình an trong tâm hồn” (1784).
10.
Phương Pháp Tự Nhiên chỉ là một cách ngừa thai của Công Giáo.”
Phương Pháp Tự
Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa thai khác
thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người khác
lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai.. PPTN phải đi giữa ranh giới
của hai cực đoan.
Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể chúng ta —và cách chung sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sựthánh thiện của tính dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy.
PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa trẻvào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với bạn đời,và trên hết là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính dục, bạn tham giavào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan.
Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉvào những người không thể cố gắng có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN — những hoàn cảnh mà phương pháp này hoàn toàn hiệu quả —và HộiThánh cho phép dùng nó.
Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởngvào Thiên Chúavà luôn chấp nhận sựsống Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương diện này.
Thí dụ, thay
vì phung phí tiền bạc lung tungvà nói rằng “Thiên Chúa sẽ cung cấp,” các gia
đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánhvà cố gắng không tiêu xài quá khả năng
của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến hoàn
cảnh của chúng ta trong cuộc đờivà hành động theo đó trong tinh thần cầu
nguyện. Biết mìnhvà dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong
chờ Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta
được mời gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta
phải cẩn thận đừng coi thường các ân huệ này.
11. “Người ta có thể vừa ủng hộ phá thai (tự do chọn lựa) vừa đồng thời là Công Giáo.”
Trong khi đây
là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin của họ,
nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo
lý không chẻ một chữ nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội
giết người trong các tội phạm đến điều răn thứ năm, “Chớ giết người.”
Những đoạn sau nói rõ: “Sựsống con người phải được tôn trọngvà bảo vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai” (2270). “Ngay từ thề kỷ thứ nhất HộiThánhđã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không thay đổivà sẽ không bao giờ thay đổi” (2271). “Hợp tác chính thứcvào việc phá thai là tội trọng. HộiThánhgán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sựsống con người” (2272).
Có thể nói rõ
ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người “tự do
chọn lựa” không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng phá thai là
sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.
Ðó là lại là luận “điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi” mà thôi. HộiThánhcũng có câu trả lời cho lập luận này: “Những quyền bất khả xâm phạm của con người phải được xã hội dân sựvà chính quyền nhìn nhậnvà tôn trọng. Những quyền này không lệ thuộcvào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hộivà của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con ngườivà gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó sinh ra con người” (2273)..
Tính linh
thiêng của sựsống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được. Khuyên ai
phá thai, hay ngay cà bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá thai, là
một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng – là điều mà Sách Giáo
Lý gọi là làm gương mù (2284).
HộiThánhmạnh dạnvà dứt khoát chống phá thai,và chúng ta là người Công Giáo cũng phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế.
12. “Việc người ta nhớ lại cuộcsống ở kiếp trước chứng tỏ rằng luân hồi là đúng…và quan điểm của Kitô Giáo về Thiên Ðàng, Hỏa Ngục là sai.”
Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể chắc sẽ thấy thêm nhữngvụ nhận rằng “nhớ lại kiếp trước”. Quả thật, bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng thôi miên.
Trong khi điều
này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục được
những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu đã
ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những
câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà
chữa trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này,và cẩn thận cân nhắc những gì
bệnh nhân nói khi bị thôi miên.
Ðáng buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm “bằng chứng” của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lanvà cho rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey Murphysống ở Cork, Ái Nhĩ Lan.
Câu chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, “Cuộc tìm kiếm Bridey Murphy,”và được nhiều chú ý. Các ký giả lục xoát khắp Ái Nhĩ Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này. Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để chống đỡ các lý luận về luân hồi.
Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trávài chục năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh động của bà,và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên họ là — bạn oán xem — Bridie.
Hơn nữa,
Virgiania thêmvào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau từ
chính đờisống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí dụ,
Bridey diễn tả về “Bác Plazz,” mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói sai của
người Gaelic “Bác Blaise.” Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám
phá ra rằng Virginia
có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là “Bác Plazz.”
Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong một lần bị thôi miên.. Làm sao mà một bà nội trợ ở Colorado lại học được cách nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu nhảy này khi còn bé.
Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn luôn gợi cảm hơn thức tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là cò nhiều câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.
Xem thêm: Bạn sẽ trả lời thế nào khi đượchỏi: "Có Thiên Chúa hay không"?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét