LẼ SỐNG 5
01 Tháng Năm
Giuse Trong Xóm Nhỏ Điêu Tàn
"Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn..."
Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào
mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Đạo Minh, dòng
thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất
nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong
một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ
qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn
cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh
quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi
nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp...
Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta
cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công
chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất
nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong
bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong
căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh
trước đe dọa, thử thách...
Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp
nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh
lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu.
Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một
giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà
là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao
động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu
Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới
thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao...
Đối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này
gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần
lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu
nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta.
Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời
của Chúa trong cuộc sống...
02 Tháng Năm
Đức Mẹ
Guadalupe
Dạo tháng 5/1990, Đức Gioan Phaolô II đã tôn
phong chân phước cho một người thổ dân Mehico tên là Juan Diego, người được Đức
mẹ hiện ra tại Guadalupe...
Juan Diego là một người thổ dân nghèo sống với
người cậu tại làng Telpetlao thuộc ngoại ô thủ đô Mehico vào khoảng thế kỷ 16.
Một buổi sáng thứ bảy nọ, trên đường đi đến thánh đường để dự thánh lễ, Juan
Diego bỗng nghe có tiếng hát du dương từ trên một ngọn đồi. Anh tiến lại gần và
thấy một thiếu nữ xinh đẹp tự xưng là Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ nói với người thổ
dân nghèo như sau: "Ta muốn có một đền thờ được dựng lên tại đây để Ta
dùng tình thương, niềm cảm thông, sự giúp đỡ và bảo vệ của Ta mà bày tỏ Thiên
Chúa cho loài người. Con hãy đi gặp vị giám mục Mehico và nói với Ngài rằng Ta
sai con đến gặp Ngài để bày tỏ ý muốn của Ta. Con hãy tin tưởng rằng Ta sẽ biết
ơn con và ân thưởng cho con. Ta sẽ làm cho con được giàu có và tôn vinh
con".
Juan đến gặp vị giám mục, nhưng anh ta buồn bã
trở về làng, vì giám mục không tin lời của anh. Đức mẹ lại hiện ra cho anh một
lần nữa và cũng sai anh mang một sứ điệp như thế đến cho vị giám mục. Nhưng lần
thứ hai, dù cho anh có van nài khóc lóc, vị giám mục vẫn một mực không tin. Vị
giám mục nói với người thổ dân nghèo rằng: "Nếu Đức Mẹ thực sự muốn điều
đó thì xin Ngài hãybày tỏ một dấu lạ". Và ngài bí mật cho người theo dõi.
Lần thứ ba, Đức Mẹ lại hiện ra cho Juan Diego, nhưng Ngài bảo anh: "Hãy
trở lại vào ngày mai và Ngài sẽ cho vị giám mục một dấu lạ".
Ngày hôm sau, Juan Diego không thể đến điểm
hẹn với Đức Mẹ được vì anh còn phải đi tìm thầy thuốc cho người cậu đang mắc
bệnh. Nhưng khi đi qua ngọn đồi, Juan vẫn được Đức Mẹ hiện ra. Ngài bảo đảm với
anh rằng người cậu của anh sẽ được lành bệnh và thay vì để Juan tiếp tục lên
đường đi Mehico để tìm thầy thuốc, Đức Mẹ đã sai anh đến nơi Ngài hiện ra cho
anh lần đầu tiên. Tại đây, Ngài sẽ cho anh những cánh hoa thật đẹp và dấu lạ để
mang đến cho vị giám mục... Lúc bấy giờ đang là mùa đông và ngọn đồi nơi Juan
được Đức Mẹ hiện ra thường chỉ có những cây cỏ của sa mạc như các loại gai và
xương rồng. Thế nhưng, hôm đó, hoa bỗng nở rộ trong sa mạc. Juan hái lấy dâng
cho Đức Mẹ, Đức Mẹ sờ đến những cánh hoa và bảo anh lấy chiếc áo choàng để đựng
hoa mang đến cho vị giám mục...
Khi Juan vừa mở chiếc áo choàng ra để lấy hoa
cho vị giám mục xem thì lạ lùng thay, hình ảnh Đức Mẹ đã được in trên chiếc áo
của anh... Tin ở lời Đức Mẹ, vị giám mục đã tức tốc lên đường đến làng Đức Mẹ
đã hiện ra cho anh Juan. Ngài nhận thấy người cậu của anh đã được lành bệnh.
Các cuộc lành bệnh lạ lùng đã diễn ra từ đó... Một đền thánh dâng kính Đức Mẹ
đã được xây cất để rồi cuối cùng trở thành Vương cung thánh đường Guadalupe như
chúng ta vẫn quen gọi.
Trong thánh lễ tôn phong chân phước cho Juan
Diego tại đền thánh Guadalupe ngay buổi chiều chủ nhật khi vừa đến Mehico, Đức
Gioan Phaolô II đã kêu gọi người dân Mehico hâm nóng lại tinh thần truyền giáo.
Truyền giáo theo đúng nghĩa là được sai đi để mang sứ điệp đến cho người khác.
Cũng giống như tất cả những ai được diễm phúc gặp Đức Mẹ, chân phước Juan Diego
đã được sai đi... Phải vất vả nhiều lần và dĩ nhiên, với sự giúp đỡ của Đức mẹ,
Juan Diego mới có thể thuyết phục được vị giám mục...
Người Kitô, từ bản chất là người được sai đi
và sứ điệp của họ chính là sứ điệp của yêu thương... Cùng với những cánh hoa
dâng tiến Mẹ trong tháng Năm này, chúng ta được mời gọi để mang những cánh hoa
yêu thương đến cho mọi người. Tình thương, sự giúp đỡ của Mẹ dành cho chúng ta
cũng phải được chúng ta diễn đạt, cao rao qua cuộc sống dạt dào Tình Mến đối
với mọi người.
03 Tháng Năm
Đi Về Đâu?
Tiền tài danh vọng không làm cho con người
hạnh phúc... Đó là điều mà người ta thường nói khi bàn về cái chết của cô đào
Marilin Monroe cách đây hơn hai chục năm... Nay, người ta cũng lặp lại điều đó
với nữ danh ca Dalida, người Pháp gốc Ai Cập... Dalida đã tự vận vào hôm
03/5/1987 tại nhà riêng của cô ở Montmartre, Paris, lúc cô được 54 tuổi.
Sinh năm 1933 tai Le Caire với tên thật là
Yolande Gigliotti, đã trở nên một ca sĩ nổi tiếng và được hâm mộ trên khắp thế
giới, kể cả ở Việt Nam, nhờ giọng ca đầy truyền cảm của cô. Những người thuộc
thế hệ 50 và 60 không thể quên những bài "Bambino", "Gigi
l'amorose"... do cô trình diễn. Danh vọng đã không đủ để thỏa mãn cô. Ngày
27/02/1967, cô đã thử một lần tự tử, rồi được cứu sống.
Tự tử cũng là một thể hiện nỗi khao khát khôn
cùng trong lòng người: đó là khao khát hạnh phúc. Khi cuộc đời này không còn là
một đáp trả cho nõii khao khát ấy, nhiều người đã tự mình tìm đến cái chết như
một giải thoát.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày
nay phải chăng không là khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống. Con người sinh ra
để làm gì? Con người sẽ đi về đâu? Sau cái chết những gì đang thực sự chờ đợi
con người... Đó là những câu hỏi lớn mà con người ngày nay, khi đứng trước
những mâu thuẫn trong cuộc sống, không ngừng đặt ra cho mình.
Con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về
đâu? Đó là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Đó là những câu hỏi mà chúng ta
không ngừng tự đặt ra cho mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, bởi vì, nhờ Đức Tin,
chúng ta tìm được ánh sáng cho những câu hỏi ấy.
Trước ngưỡng cửa của năm 2000, nhân loại đang
mỗi lúc phải đương đầu với những thách đố lớn của cuộc sống. Người Kitô được
trang bị bởi Đức Tin đang nằm giữa một vai trò quan trọng giai đoạn này. Ánh
sáng Đức Tin, cần phải được chiếu sáng trong cuộc sống của người Kitô để nhờ
đó, những người xung quanh cũng tìm ra được ý nghĩa và giá trị cũng như hướng
đi đích thực của cuộc sống
04 Tháng Năm
Xin Chúa Tha
Thứ Cho Tôi
Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ
tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường.
Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn
xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.
Người khách quen thuộc nhất của người xấu số
này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ
này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành
khất.
Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người
ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến
thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động
trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau:
"Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai
vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi
đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của
họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát
khỏi".
Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu,
nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất:
"Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta
chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu... Từ đó, tôi không thể nào
có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để
quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này
đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc
thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ... Xin Chúa tha thứ cho
tôi".
Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời
tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc
giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như
sau: "Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Đại diện
cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha
và Con và Thánh Thần...".
Câu chuyện tha thứ trên đây là một trong những
mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của
lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha
thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người...
Sự hiện diện của bà Muzeyen Agca tại Roma dạo
tháng 02/1987 nhắc lại cho chúng ta một biến cố vô cùng đau thương, nhưng cũng
gợi lại một nghĩa cử vô cùng cao quý của vị Cha chung. Ngày 13/5/1981, giữa lúc
hàng ngàn người đang chen chúc tại công trường thánh Phêrô để chờ đón Đức Gioan
Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên từ đám đông đã làm cho mọi người
như đứng tim. Đức Thánh Cha đã gục ngã trên chiếc xe Jeep mui trần, máu me vọt
lên tung téo. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị Giáo Hoàng bị mưu
sát.
Ali Agca, thủ phạm chính của vụ mưu sát, đã bị
bắt giữ ngay sau đó. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này đã bị giam giữ tại nhà tù
Rebibbia ở Roma. Biến cố đẫm máu trên đây đã ghi đậm sự thù hận đang sôi sục
trong lòng người... Nhưng thế giới không chỉ được nung náu bằng lò lửa của hận
thù. Thiên Chúa đã tạo dựng con người để yêu mến và tha thứ...
Năm 1984, một biến cố khác đã làm chấn động dư
luận thế giới: Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đến nhà giam Rebibbia để nói
chuyện với Ali Agca và tha thứ cho anh. Không ai biết hai bên đã trao đổi những
gì, nhưng ai cũng cảm động trước cảnh tượng kẻ sát nhân và người bị mưu sát đã
bắt tay nhau và trao cho nhau ánh mắt của tha thứ, của hòa giải...
05 Tháng Năm
Nhà Thờ Cho
Người Da Màu
Trong quyển tự thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ
của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách
thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên,
ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh thánh và vô cùng
cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thực đã gợi
hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatta Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải
pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ
qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến
nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào
đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu
ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da
màu.
Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã
không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.
Câu chuyện trên đây của Mahatma Gandhi đáng
cho chúng ta suy nghĩ: vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có thể là một
chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo Hội. Một lời nói,
một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược lại với tinh thần của Tin Mừng, đều có thể
là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.
Không ai là một hòn đảo. Chân lý này đúng cho
những tương quan giữa người với người mà còn có giá trị hơn nữa trong tương
quan của niềm tin. Không có một hành động nào của người Kitô hữu mà không ảnh
hưởng đến người khác. Trong mầu nhiệm của sự thông hiệp, chúng ta biết rằng tất
cả mọi chi thể của Đức Kitô đều liên kết khăng khít với nhau đến độ sức mạnh
của người này là nơi nương tựa cho người khác, sự yếu đuối và tội lỗi của người
này có thể làm tổn thương đến người khác... Trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức
Kitô, tất cả mọi chi thể đều liên đới với nhau, tất cả mọi người đều có trách
nhiệm đối với nhau...
Không ai là một hòn đảo. Chân lý này cũng đúng
cho tương quan của người tín hữu đối với người ngoài Giáo Hội. Mỗi người tín
hữu đều phải là trung gian nhờ đó con người tìm đến với giáo Hội. Nói cho cùng,
người tín hữu không sống cho mình mà sống cho tha nhân. Thật thế, có lẽ không
ai trong chúng ta có thể vào Thiên Đàng nếu chúng ta chưa giúp cho một người
nào đó cũng vào Thiên Đàng với chúng ta. Đó chính là luận lý của Tin Mừng: Khi
mất đi bản thân vì tha nhân, chúng ta mới tìm gặp lại chính mình.
06 Tháng Năm
Khác Biệt Giữa
Ngày Và Đêm
Một vị đạo sĩ Ấn Giáo nọ hỏi các đệ tử của ông
như sau: "Làm thế nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?"
Một người đệ tử trả lời như sau: "Khi ta
trông thấy một con thú từ đằng xa và ta có thể nói: đó là con bò hay con
ngựa".
Câu trả lời trên đây đã không làm cho nhà đạo
sĩ ưng ý chút nào...
Người đệ tử thứ hai mới lên tiếng nói:
"Khi ta thấy một cây lớn từ đằng xa vàta có thể nói nó là cây xoài hay cây
mít".
Vị đạo sĩ cũng lắc đầu không đồng ý. Khi các
đệ tử nhao nhao muốn biết câu giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau: "Khi
ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào và nhận ra người anh em của ta trong
người đó thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được
như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay
đổi".
Ngày 25 tháng 12, lễ Thần Mặt Trời của dân
ngoại đã được Giáo Hội chọn làm ngày sinh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quả thực
là Mặt Trời Công Chính. Ngài xuất hiện để báo hiệu Đêm đã tàn và Ngày Mới bắt
đầu.
Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối của tội
lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa người với
người. Chúa Giêsu đã đến để xóa tan đêm tối ấy và khai mở ngày mới trong đó
người nhận ra người, người trở về với Thiên Chúa.
Quả thực, chỉ trong Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm
con người mới được sáng tỏ. Trong đêm tối âm u của khước từ Thiên Chúa và chóii
bỏ lẫn nhau, con người đã không biết mình là ai, mình sẽ đi về đâu. Trong ánh
sáng của Chúa Giêsu Kitô, con người nhận dạng được chính mình cũng như nhìn
thấy người anh em của mình.
hận ra người anh em nơi một người nào đó chính
là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng
cao quý của người đó.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó là
nhìn thấya niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đso như
của chính mình.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó chính là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó chính là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó cũng
có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó.
Nhận ra người anh em nơi một người nào đó cũng
có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách này hay cách khác, ta cần người đó
để được sống xứng với ơn gọi làm người hơn.
07 Tháng Năm
Truyền Giáo
Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người
Pháp tên là Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám
hiểm của anh ở Maroc. Người chăm chú theo dõi câu chuyện của anh nhất là cô
cháu bé chưa tròn 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần đặt một
câu hỏi như sau: "Thưa cậu, cháu đã thấy cậu làm được nhiều việc vĩ đại...
Thế cậu đã làm được gì cho Thiên Chúa chưa?"
Câu hỏi ấy như một luồng điện giật khiến anh
trở thành bất động. Từ bao lâu nay, chưa có người nào đã khiến anh phải suy
nghĩ nhiều như thế. "Anh đã làm gì cho Thiên Chúa chưa?". Charles de
Foucauld lục soát trong lương tâm của mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy.
Anh đã phí phạm tất cả thời giờ của anh trong những cuộc ăn chơi trụy lạc và
những danh vọng phù phiếm... Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ,
nghèo hèn của mình.
Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị
linh mục. Anh vào dòng khổ tu, rồi xin đến Nagiareth để sống trọn vẹn cho Chúa
Giêsu.
Ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu
nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng than van rên rỉ của một
người Hồi Giáo.
Charles de Foucauld nghĩ đến gương bác ái của
Chúa Giêsu: anh có thể giam mình cầu nguyện một mình giữa lúc những người anh
em của anh đang rên rỉ trong hấp hối, trong thất vọng sao?
Nghĩ thế, anh bèn quyết định đến sống giữa họ,
trở thành bạn hữu của họ, nhất là những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn nhất
trong xã hội.
Những năm cuối cùng, Charles de Foucauld sống
giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người dân nghèo.
Charles de Foucauld đã chia sẻ với họ những giọt máu cuối cùng của anh: ngày
đầu tháng 12 năm 1916, anh đã bị thảm sát giữa lúc đang cầu nguyện... Ngày nay,
các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh: họ lao động
và sống giữa những người nghèo hèn nhất trong xã hội... Tất cả cuộc sống và sự
âm thầm hiện diện của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa.
Có những nhà truyền giáo rời bỏ quê hương để
đi đến những nơi hoàn toàn xa lạ như Thánh Phanxicô Xaviê. Nhưng cũng có những
nhà truyền giáo dâng cả cuộc đời hy sinh cầu nguyện và đau khổ của mình như Thánh
Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Có những nhà truyền giáo hùng hồn giao rảng như các
tông đồ, nhưng cũng có những nhà truyền giáo âm thầm hiện diện và chia sẻ với
những người nghèo khổ như Charles de Foucauld.
Âm thầm hiện diện. Nhưng vẫn có thể chiếu sáng
niềm tin yêu hy vọng: đó là mẫu người truyền giáo mà Giáo Hội tại Việt Nam đang
cần hơn bao giờ hết. Những cuộc sống tử tế, hy sinh phục vụ, quên mình... vẫn
là những lời rao giảng hùng hồn hơn bao giờ hết.
08 Tháng Năm
Chữ Thập Đỏ
Buổi sáng ngày 24/6/1859, Henri Dunant, một
thương gia trẻ tuổi người thụy Sĩ, thức giấc với nhiều bận tâm. Từ mấy ngày
nay, anh đang trọ tại một lữ quán nghèo thuộc miền Castiglione delle Stiviere
bên Italia. Anh đến italia với một công tác rất táo bạo, đó là gặp cho kỳ được Hoàng
Đế Napoleon đệ tam của nước Pháp để xin cấp cho anh giấy phép được thiết lập
một số nhà máy xay lúa tại Algerie, lúc bấy giờ đang là thuộc địa nước Pháp...
Từ trong quán trọ nhìn ra, anh thấy từng đoàn
binh sĩ Pháp di chuyển về cánh đồng Solferino... Và những gì phải xảy ra đã xảy
ra... 300 ngàn con người từ hai phía đã giáp chiến. Tiếng súng nổ, tiếng người
la hét giãy giụa. Khi màn đêm xuống, tiếng súng thưa dần, người ta chỉ còn nghe
thấy tiêng rên la của các thương binh từ hai phía... Giờ phút này Henri Dunant
không còn nghĩ gì đến dự án thiết lập các nhà máy xay lúa tại Algerie nữa. Thay
vào đó, nỗi oán ghét chiến tranh và sự cảm thông với các thương binh mỗi lúc
một xâm chiếm tâm hồn anh, nhất là khi người ta bắt đầu di chuyển các thương
binh vào các làng mạc...
Một người lính Pháp vừa lê lết vừa xin nước
uống. Nguyên một bàn chân đãbị cắt đi khỏi thân thể. Dunant dìu anh vào quán
trọ. Cùng với các y sĩ của các phe đang tham chiến, Henri Dunant đã động viên
tất cả dân làng để mang thực phẩm và thuốc men đến cho các thương binh, bất kể
họ thuộc bên nào.
Trong những ngày ấy, thay cho dự án kinh
doanh, Henri Dunant đã dành thời giờ đê viết lại hồi ký về trận Solferino. Anh
mô tả lại tất cả những gì anh đã chứng kiến và kêu gọi tất cả những người thiện
chí trên thế giới hãy giúp anh để chấm dứt thảm cảnh ấy. Không mấy chốc, cuốn
sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được gửi đến các Chính Phủ trên thế
giới. Ngay tức khắc, một tổ chức nhân đạo tại Génève đã thỏa thuận trợ giúp cho
công tác của Dunant. Anh đi khắp các thủ đô Âu Châu để thuyết phục các nhà cầm
quyền ký vào một quy ước nhìn nhận quyền bất khả xâm phạm của các thương binh,
các y tá và tất cả những ai phục vụ trong ngành quân y...
Ngày 26/10/1963, đại diện của 16 nước đãgặp
nhau tại Génève. Tổ chức do Henri Dunant khai sinh được chính thức chào đời
ngày hôm đó. Người ta gọi tổ chức này là Hội Chữ Thập Đỏ, do biểu tượng của một
chữ thập đỏ in trên nền trắng... Dấu hiệu này đã được treo trên các lều, các
nhà cửa thuộc về phong trào này... Đó là món quà lớn nhất mà Henri Dunant đã
tặng cho nhân loại.
Trong tập hồi ký trận Solferino, Henri Dunant
đã ghi lại như sau: Có nhiều binh sĩ Áo dưới quyền chỉ huy của Hoàng Đế
Prancois Joseph bị bắt làm tù binh. Henri Dunant đã săn sóc họ tận tình. Thấy
thế, một bà cụ già trong làng đã phản đối vì cho rằng người Áo là kẻ thù. Henri
Dunant đã nói với bà cụ già như sau: "Trong sự đau khổ, không còn khác
biệt giữa bạn và thù nữa.. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau".
Nhìn mọi người như anh em của mình, một cái
nhìn như thế hẳn phải xuất phát từ một niềm tin rất sâu sắc...
Năm 1901, lần đầu tiên, giải thưởng Nobel hòa
bình đã được trao tặng và người được danh dự ấy chính là vị sáng lập ra Hội Chữ
Thập Đỏ. Mười năm sau, con người đã trao tặng cho thế giới một món quà cao quý
như thế đãqua đời trong một bệnh viện dành cho những người hành khất nghèo nàn
bên Thụy Sĩ. Gia tài của ông đẻ lại là vài cuốn sách, năm ba lá thư và một di
chúc thiêng liêng như sau: "Hoặc tôi là một môn đệ của Đức Kitô giống như
các tín hữu của những thế kỷ đầu hoặc tôi không là gì hết".
Đặc biệt của các tín hữu sơ khai và cũng là lý
tưởng của Henri Dunant chính là lòng mến, lòng mến đã biến họ nhận ra mọi người
như là anh em, con cùng một Cha trên Trời... Mỗi người Kitô chúng ta cũng có thể
lập lại lời di chúc của vị sáng lập Hội Chữ Thập Đỏ: "Hoặc tôi tôn trọng
và yêu thương tha nhân hoặc tôi không là gì hết".
09 Tháng năm
Hòn Đá Ném Đi
Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ
ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có
để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì
người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin,
người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời
van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con
người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho
vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà
người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi".
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá
ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành
khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản
và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta
áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo
đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người
ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối
nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng
thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự
nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con
người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta".
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là
điều cao cả nhất mà Kitô Giáo đã cống hiến cho con người.
Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban
chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Tha thứ
là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của
mình. Của lễ hy sinh trên thập giá củaChúa Giêsu đã nên trọn khi Ngài thưa với
Chúa Cha: "Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng lầm không biết việc
chúng làm".
Tha thứ là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì
qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã
mạc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có
một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ
không ngừng...
Tha thứ là nét cao đẹp nhất của lòng người,
bởi vì càng tha thứ, con người càng nên giống Thiên Chúa.
10 Tháng Năm
Bàn Tay Phải
Của Chúa Giêsu
Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng
thánh giá cổ xưa... Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ
rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh
tay mặt thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng
thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục
chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một
tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này tthường tỏ ra rất nghiêm khắc.
Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng
tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng
thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: "Đây là lần cuối cùng tôi
giải tội cho ông".
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ
dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần
nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng có
đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước
từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay
phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối
nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: "Chính ta là
người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi".
Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi
trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ...
Kinh Thánh thuật lại rằng trong cuộc hành
trình tiến về đất hứa, khi đi qua giữa sa mạc, dân Israel đã bị rắn cắn. Môi
sen đã sai đúc một con rắn đồng và treo lên một ngọn cây để tất cả những ai bị
rắn cắn, nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành...
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn lên thập
giá của Ngài.
Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án
phạt của tội lỗi.
Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la
của Chúa.
Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa
Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu
không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn
phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng
vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm mến được hồng ân bao la của Chúa,
để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm mến được ơn tha
thứ của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với
người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng
ta còn được mời để gọi tha thứ nhiều hơn. Còn tha thứ nhiều hơn, chúng ta còn
dễ cảm mến được ơn tha thứ của Chúa...
11 Tháng Năm
Cơn Thịnh Nộ
Của Các Thánh
Trong tác phẩm có tựa đề "Quyển Phúc Âm
thứ 5", tác giả người Ý là ông Pomilio có tưởng tượng một câu chuyện như
sau: Ngày kia, các thánh trên Thiên Đàng không còn chịu đựng nổi những xúc phạm
của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên Ngài mới họp công nghị để tìm
cách chặn đứng tội lỗi của nhân loại...
Sau không biết bao nhiêu buổi họp, cuối cùng
các thánh mới đồng thanh biểu quyết rằng việc Con Thiên Chúa chịu chết trên
thập giá vẫn chưa đủ để cứu rỗi con người. Do đó, cần phải dùng đến sức mạnh
may ra mới trừng trị và thuyết phục được loài người.
Các Ngài họp lại thành một đạo binh hùng mạnh
và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh đã chinh phục
được thế giới. Các Ngài giao việc cai trị trái đất cho một số người công chính
còn sót lại giữa loài người. Còn tất cả những kẻ gian ác, tội lỗi, các ngài tập
trung lại trong một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài dựng lên những dàn hỏa
thiêu vĩ đại để tiêu diệt tất cả những người tội lỗi. Các ngài tin chắc rằng
sau cuộc thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất sẽ chỉ có những người
công chính...
Khi mọi sự đã sẵn sàng để tiến hành cuộc tiêu
diệt, thì giữa đám người tội lỗi, các thánh bỗng thấy một người đang vác thập
giá. Hắn đang ra hiệu cho những người khác đến giúp dỡ hắn... Nhìn thấy cảnh
tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn nữa. Tại sao một người tội lỗi lại bị xử
theo hình phạt chỉ được dành riêng cho Con Thiên Chúa mà thôi? Nghĩ như thế,
cho nên các thánh mới triệu kẻ vác thập giá đến, trói chân tay hắn lại và giải
đến trước mặt thánh Phêrô để xét xử.
Vừa thoáng nhìn qua kẻ vác thập giá, vị thủ
lãnh các tông đồ đã nhận ra ngay Thầy mình. Các thánh ngỡ ngàng không ít, khi
được thánh Phêrô tiết lộ rằng Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội
lỗi. Các ngài mới nhớ lại lời của Ngài: "Con Người không đến để cứu thoát
những người công chính mà chính là những người tội lỗi". Chúa Giêsu cũng
nói các thánh rằng Ngài đã quyết định chết một lần nữa cho các tội nhân, bởi vì
trên trần gian, không có một người nào có thể cứu thoát kẻ có tội khỏi cơn
thịnh nộ của các thánh.
Chúng ta dễ rơi vào hai thái cức trái nghịch
nhau: thái độ của những người biệt phái và thái độ của Giuda, kẻ bán nộp Chúa.
Thái độ của những người biệt phái được Chúa
Giêsu phác họa qua hình ảnh của một người tự cao tự đạo vào Đền Thờ cầu nguyện.
Người này kể ra bao nhiêu công trạng của mình và nhìn một cách khinh bỉ về
người thu thuế đang nép mình ở phía cuối Đền Thờ. Thái độ ấy tiêu biểu ấy cho
chính cái nhìn mà đôi khi chúng ta cũng có đối với người khác. Chúng ta hãnh
diện về đời sống đạo đức của chúng ta và kết án những yếu hèn, thiếu sót của
những người xung quanh...
Đối nghịch với thái độ kiêu ngạo của người
biệt phái là thái độ thất vọng của Giuda. Sau khi đã bán nộp Chúa, Giuda mới
nhận ra lỗi lầm của mình. Ông không còn tin tưởng ở lòng Nhân Từ của một Thiên
Chúa có thể tha thứ tất cả tội lỗi của ông và có thể mang lại cho cơ may để sống
tốt đẹp hơn.
Tựu trung, cả hai thái độ đều có chung một mẫu
số: đó là đóng khung trong chính bản thân để khước từ mọi ân sủng của Chúa.
Qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta đặt tất cả tin tưởng, phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa. Dù tội lỗi
chúng ta có ngập tràn, Tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn có sức xóa sạch tất cả.
Tình yêu của Ngài mạnh hơn cả hỏa ngục và sự chết... Qua cách cư xử của Chúa
Giêsu với tội nhân, chúng ta cũng được mời gọi để nên trọn lành như Cha chúng
ta trên Trời, đó là luôn biết tha thứ và cảm thông đối với những bất toàn, yếu
đuối và tội lỗi của con người...
12 Tháng Năm
Danh Dự Cho Ai
Văn sĩ Pháp Alexandre Piron qua đời năm 1773,
thường có thói quen đi dạo trong khu rừng Boulogne giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ,
ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường.
Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì
trong đám đông những người đang đi dạo trong khu rừng, một vài người đến gần
ông, ngả nón chào. Cũng có một vài người bái cả gối nữa. Nhà văn mỉm cười đáp lễ
cảm tình mà khách qua lại dành cho ông. Ông không ngờ rằng ông được nhiều người
mến mộ đến như thế. Ông mong sao một số bạn bè trong văn giới chứng kiến được
cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà ông đã đạt được...
Nhà văn đang say với bã vinh hoa thì chợt
trong đám người đang bái chào ông, một lão bà để lộ một thái độ khác thường.
Cũng giống như mọi người khác, bà lão cúi chào, rồi tiến đến gần ghế đá. Bà thì
thầm nói trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao.
Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên
cao phía trên tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng trên đầu ông có một
tượng thánh giá... Thì ra, những người đi dạo trong khu rừng Boulogne này dừng
lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối
với Chúa Giêsu trên thập giá.
Hổ thẹn vì sự khám phá ấy, Alexandre Piron
đứng dậy bỏ đi nơi khác.
Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thái độ gay gắt đối với
những người biệt phái giả hình, là bởi vì họ muốn chiếm đoạt chính Vinh dự của
Thiên Chúa. Họ cũng giống như văn sĩ Alexandre Piron trong câu chuyện trên đây:
người ta đến bái chào Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng ông lại muốn dành cho
mình vinh dự ấy. Những người biệt phái giả hình cũng giống như con lừa mà Chúa
Giêsu dùng để cưỡi vào thành Giêrusalem. Giữa những tiếng reo hò dân chúng dành
cho Chúa Giêsu, con lừa cứ nghĩ rằng nó là một anh hùng oai phong lẫm liệt...
Khao khát danh vọng, quyền bính là đam mê
chung của mọi người. Ai cũng thích xuất hiện trước công chúng, ai cũng thích
được người đời ca tụng, ai cũng thích được phục vụ. Một cách nào đó, người tham
vọng không những dùng người khác như bàn đạp, mà còn tước đoạt chính Vinh quang
của Chúa...
Chúa Giêsu là con người đã sống trọn vẹn cho
tha nhân và do đó cũng quy mọi vinh dự về cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói
với chúng ta rằng: là Thiên Chúa, Ngài đã không đòi cho được đồng hàng với
Thiên Chúa, nhưng đã hủy bỏ mình đi để mặc lấy thân phận con người và vâng phục
cho đến chết.
Chúa Giêsu đã vạch cho chúng ta con đường được
sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con
người sống cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, con người
mới đạt được chính cùng đích của mình. Sống cho Thiên Chúa là luôn tìm thấy
Thánh ý của Ngài, là hoạt động cho vinh quang của Ngài, là trở thành khí cụ
trong bàn tay của Ngài...
13 Tháng
Năm
Ngày Của Mẹ
Ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm, tại
nhiều nước trên thế giới, được gọi là ngày của Mẹ, ngày dành riêng để tỏ lòng
báo hiếu đối với Mẹ...
Sáng kiến dành ngày Chúa Nhật thứ hai của
tháng năm làm ngày của mẹ được gán cho một thiếu nữ người Hoa Kỳ tên là Anna
M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948. Mẹ của cô qua đời tháng năm năm 1905. Trong
những năm kế tiếp, cô thường tổ chức giỗ mẹ một cách trọng thể như mời bạn bè
đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết thư gửi tới các nhân vật quan trọng trong
nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ các bà Mẹ. Tiểu bang nơi cô đang sống đã
chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10 tháng 5 ấy, quốc hội Hoa Kỳ cũng thông
qua đề nghị nhận ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng 5 như một ngày để ghi ơn
các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã công bố quyết định này ngày
09/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới... Trong
ngày nhớ mẹ, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng nếu
mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.
Trong các tước hiệu Giáo Hội dùng để gọi Đức
Maria, có lẽ xứng hợp với tâm tình con người hơn cả vẫn là tước hiệu Mẹ. Chúng
ta có thể gọi Đức Maria là Mẹ với tất cả tâm tình trìu mến như khi chúng ta gọi
người mẹ của chúng ta. Do lời trăn trối của chính Chúa Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở
thành Mẹ của Giáo Hội. Qua muôn thế hệ, Mẹ không ngừng cưu mang, sinh ra và
dưỡng dục các tín hữu trong Đức tin.
Niềm hạnh phúc của bất cứ người mẹ nào vẫn là
thấy con mình được nên người. Mẹ Maria chăm chú theo dõi và lo lắng cho từng
người chúng ta. Niềm vui của Mẹ chính là thấy mỗi người chúng ta được lớn lên
theo hình ảnh của Chúa Giêsu con Mẹ...
Chúng ta mang đến cho Mẹ những bó hoa trong
suốt tháng 5, tháng 10 và trong từng lời Kinh dâng lên Mẹ. Nhưng có lẽ Mẹ sẽ
sung sướng hơn mỗi lần nhìn thấy sự trưởng thành nơi chúng ta. Mỗi lần chúng ta
lớn lên trong ân phúc, trong bác ái yêu thương, trong hy vọng tin yêu: đó là những
bó hoa tốt đẹp nhất mà chúng ta dâng lên Mẹ...
14 Tháng Năm
Hương Vị Của
Khói
Để đả phá tính ích kỷ, người Ả Rập thường kể
câu chuyện như sau:
Tai một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu
cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút những
người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon
vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cặn hay
cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp...
Một hôm, có một người nghèo mon men đến một
cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo này có ý nghĩ độc
đáo: thay vì chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái
nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa hít thở làn
khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng như mình
đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.
Nhưng không may cho anh, vì hôm đó người chủ
nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt
vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống
khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người ăn xin như sau:
"Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đã thưởng
thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta".
Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đã
được đem ra trước tòa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu vì vụ án này. Ông cho
triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải quyết vụ án. Những
người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói rằng khói bốc ra
từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác thì cho
rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền
hưởng mà không phải trả đồng xu nào.
Sau khi đã bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh
mới đưa ra phán quyết như sau: "Người nghèo đã hưởng khói mà không đụng
đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gõ đồng
bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đòi
tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy".
Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây có lẽ
muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc
nào.
Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất
trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến mình,
không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một
phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xỉ phẩm được thêm vào
tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân
cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngưòi. Tôi càng nên người
hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn khi tôi trao
ban...
Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta ơn gọi
đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân. "Này là Người,
này là con người với đầy đủ tính người". Đó phải là ý nghĩa của lời tuyên
bố của Philato khi ông cho trình diện trước đám đông một Chúa Giêsu với tấm
thân không còn hình tượng của con người nữa và nói: "Này là
người...". Con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người
tiêu hao hoàn toàn vì người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người
khác...
Đó là định luật của Tình Yêu mà Chúa Giê su đã
mạc khải cho chúng ta: Ai đi tìm mạng sống mình, người đó sẽ mất. Ai mất mạng
sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại.
15 Tháng Năm
Ta Không Kết
Án Con
Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền
Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được tạm trổ vào khoảng
thế kỷ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay Chúa Giêsu giang ra
và bị đóng vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại
nhà thờ chánh tòa Wurzburg thì khác hẳn: thay vào bị giang ra và bị đóng vào gỗ
giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng
một người nào đó.
Người dân địa phương truyền tụng rằng trong
cuộc chiến tranh tôn giáo giữa tin lành và công giáo vào giữa thế kỷ 17, một
người lính chống công giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Thiên Chúa có
một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắc thang leo lên để đánh cắp.
Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay của Chúa Giêsu bỗng
được tháo gỡ. Chúa Giêsu giang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu
mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.
Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh
giá!
Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu
không còn giang ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim
trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.
Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng
như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: "Ta không
hề kết án con".
"Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi
đã ban Con Một của Ngài", đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất
cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua
đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn
sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.
Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không
có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trìu tượng, yêu thương con người
như một đám đông hay như một con số. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một
tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Ngài như thể là người duy
nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm
trọn tình yêu của Chúa.
Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ
muốn điều thiện cho tôi. Điều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, đo lường của
tôi. Do đó, cho dẫu có gặp trăm nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin
rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi
cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất
bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ
may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.
16 Tháng Năm
Cái Hôn
Hãng thông tấn AFP của Pháp trong bản tin ngày
23/01/1991 đã ghi một mẩu chuyện lạ như sau:
Một phụ nữ Brazil đã lợi dụng cái hôn để cắn
và nuốt mất khúc lưỡi của người yêu. Bà cho biết: làm như thế là để trả thù
người đàn ông vì đã đánh đập, hành hạ bà.
Cảnh sát tại thành phố Salvador de Bahia, mạn
đông bắc Brazil cho biết như sau: Lucia bị người yêu là ông Djalm dos Santos,
47 tuổi, đã đánh đập, hành hạ thậm tệ. Nàng kiên nhẫn chờ đợi cơ hội. Hôm
22/01/1991, ông Djalm đến thăm Lucia để xin lỗi. Cô ta liền nhảy xổ vào người
yêu, ôm hôn ông một cách rất tình tứ, không cho ông có thì giờ để giải thích.
Hai người đang hôn nhau, thì đột nhiên, Lucia
cắn đứt một phần lưỡi của Djalim và nuốt luôn vào bụng để người ta không thể vá
lại khúc lưỡi đã bị mất.
Người đàn ông được đưa vào bệnh viện cấp cứu.
Nhưng theo các bác sĩ điều trị, ông ta sẽ không bao giờ có thể nói lại một cách
bình thường được, vì đã mất một khúc lưỡi.
Ông Djalm than thở như sau: "Đây là nụ
hôn thê thảm nhất trong đời tôi. Đó thật là nụ hôn của Giuda".
Cái hôn có nhiều hình thức và ý nghĩa khác
nhau.
Có cái hôn của các nhà lãnh đạo tôn giáo,
chính trị để nói lên tình hữu nghị, sự hòa giải. Có cái hôn bình an của các tín
đồ của một tôn giáo. Có cái hôn dạt dào thương mến giữa cha mẹ và con cái. Có
cái hôn nồng cháy dục tình giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.
Tựu trung, trong cái hôn nào cũng có hai yếu
tố: yếu tố hữu hình là sự tiếp giáp giữa hai thân xác qua môi miệng và yếu tố
vô hình mà cái hôn muốn diễn tả như tình liên đới, hữu nghị, sự hòa giải, tình
mẫu tử, tình yêu lứa đôi. Cái hôn sẽ trở thành đồng nghĩa với sự phản bội khi
nó tước đoạt khỏi yếu tố vô hình trên đây. Đó là trường hợp cái hôn của người
đàn bà Brazil trên đây.
Nhưng điển hình nhất của cái hôn phản bội vẫn
là cái hôn Giuda dành cho Chúa Giêsu. Điều bỉ ổi nhất trong cái hôn của Giuda
chính là dùng một cử chỉ của tình thân như một dấu hiệu của sự bán nộp.
Cái hôn của Giuda được lập lại khi người ta
dùng những chiêu bài cao đẹp để che đậy những ý đồ đen tối. Cái hôn của Giuda
được lập lại khi người ta nhân danh nhân nghĩa, nhân danh phục vụ, nhân danh
người nghèo để kiếm quyền bính, tư lợi cho mình.
Đối với người tín hữu Kitô, thì cái hôn của
Giuda chính là thái độ sống giả hình mà Chúa Giêsu không ngừng kết án trong
Phúc Âm. Đó là điều mà tiên tri Isaia đã cảnh cáo khi ông nói: "Dân này
thờ Ta ngoài môi miệng, mà lòng trí chúng thì xa Ta". Nếu cái hôn của
Giuda là một cử chỉ thân tình ngoài môi miệng, nhưng lòng trí thì lại chất chứa
âm mưu thâm độc, thì thái độ sống giả hình của người tín hữu cũng là một cái
hôn như thế.
Khi môi miệng sốt sắng cầu kinh, nhưng cuộc
sống lại đầy những hành động gian ác ích kỷ, phải chăng đó không là chiếc hôn
của Giuda mà chúng ta dành cho Chúa.
17 Tháng Năm
Đi Một Đoạn
Đường Với Chúa
Người Ấn Độ có kể một câu chuyện ngụ ngôn như
sau: Có một người thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Đêm ngày, anh
cầu nguyện liên lỉ chỉ mong sao cho ước nguyện của mình thành sự thật. Quả
thực, không bao lâu, Thiên Chúa đã đến với anh dưới hình dạng của một con người
đẹp đẽ, uy quyền, trầm tĩnh.
Chúa đề nghị với anh: "Con có thể đi với
Ta một quãng đường không?". Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao
giờ hết. Chúa và anh đồng hành với nhau như một đôi bạn tri âm. Đi một lúc,
Chúa dừng lại nói với anh: "Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta một ít
nước không?".
Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh
tràn ngập hạnh phúc. Còn gì sung sướng bằng đi tìm nước để mang về cho Chúa...
Nhưng, anh đi tìm mãi mà không thấy nơi nào có nước... Anh đi mãi để rồi cuối
cùng dừng lại bên một bờ sông. Anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa, thì
tình cờ một cô gái đẹp xuất hiện bên bờ sông. Cô gái đẹp đến độ người thanh
niên không còn thấy cảnh vật xung quanh, cũng như không còn nghĩ đến việc mang
nước về cho Chúa.
Anh nấn ná đến làm quen với cô gái. Họ thương
nhau, lấy nhau và sinh được nhiều con cái. Không gì đầm ấm, hạnh phúc cho bằng.
Nhưng một cơn ôn dịch xảy đến. Người thanh niên đưa vợ con đi đến một nơi khác.
Nhưng khi họ đi qua một chiếc cầu, thì thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng
lên kéo cả vợ con anh theo. Người đàn ông bám vào được một gốc cây lớn. Anh
khóc thương cho thân phận bọt bèo của vợ con cũng như chính kiếp cô đơn lạc
loài của anh.
Giữa lúc đó, Thiên Chúa xuất hiện trước mặt
anh: Ngài mỉm cười hỏi anh: "Này con, con có mang nước về cho Ta không?
Con làm gì để Ta phải chờ đợi gần cả tiếng đồng hồ".
Một người cha nhân từ mòn mỏi trông đứa con
hoang trở về: đó là hình ảnh cảm động nhất về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc
khải cho chúng ta trong bài dụ ngôn "Người Con Hoang Đàng". Từng
ngày, người cha ra đầu ngõ để trông đợi. Khi đứa con còn ở đằng xa, ông đã chạy
đến để giang rộng đôi cánh tay để ôm trọn đứa con vào lòng, không một lời quở
trách, không một cử chỉ bất bình... Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như
thế. Chúng ta tưởng mình đi tìm Ngài, chúng ta tưởng Ngài ẩn mặt với chúng ta.
Nhưng kỳ thực, chính Ngài mới là Đấng đeo đuổi chúng ta, tìm kiếm chúng ta, chờ
đợi chúng ta. Chúng ta tưởng mình đang đi đến với Chúa, nhưng kỳ thực chính
Ngài đang ở với chúng ta.
18 Tháng Năm
Cánh Diều
Người Rumani nói về nguồn gốc của trò chơi thả
diều bằng mẩu chuyện như sau:
Tại một làng kia, có một người nghèo mà ai
cũng gọi là Cob. Cob là một tên gọi không mấy thanh cao trong ngôn ngữ Rumani.
Người ta gọi ông bằng tên ấy vì cái miệng sún răng cũng như đôi chân khập
khiễng của ông. Con người có dáng vẻ xấu xí ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể là một
người nghèo mà thôi. Không vợ, không con, ông Cob lầm than như tất cả những
người nghèo khác. Đi đến đâu, ông cũng trở thành trò đùa cho mọi người. Vậy mà
con người ấy không hề than thân trách phận hoặc tỏ ra giận dữ, buồn phiền mỗi
khi bị chọc ghẹo.
Cả đời, ông chỉ có mỗi một băn khoăn: là chưa
hề làm một việc thiện cho người khác. Ông yêu người, ông muốn tặng thật nhiều
quà cho mọi người. Nhưng ông cảm thấy mình quá nghèo để có thể thực hiện được
giấc mơ ấy. Ông thường tự nhủ: "Bệnh tật, đau yếu, khốn khổ, chết chóc, đó
là số phận chung của mọi người. Ai không nhỏ lệ thì cũng khóc thầm trong lòng. Nước
mắt là cơm bữa của loài người. Do đó, cần phải làm cho con người phấn khởi, vui
tươi". Nghĩ thế, ông trình bày lên Chúa tước nguyện như sau: "Xin Chúa
cho con có thể mang lại cho những người đau khổ một quà tặng".
Một quà tặng cho nhân loại đau khổ, nhưng ông
Cob vẫn không biết món quà đó phải như thế nào. Trong khi chờ đợi, mỗi lần bị
cười chê, mỗi lần bị đem ra làm trò cười, ông vẫn tươi cười với ý nghĩ rằng:
"Ít ra mình cũng làm cho người vui".
Sau một thời gian suy nghĩ, cuối cùng ông Cob
mới tìm ra được món quà tặng mà ông sẽ mang lại cho nhân loại đau khổ: đó là
một cánh diều bay lơ lửng trên không.
Nghĩ đó là sự linh ứng của Chúa, ông Cob đi nhặt
tất cả những gì cần thiết để làm một cánh diều. Ông miệt mài cắt xén, sơn vẽ để
hoàn thành được một cánh diều óng ả, sáng chói như một đĩa bay.
Khi cánh diều gặp gió bay cao, cả dân làng kéo
nhau ra cánh đồng để nhìn ngắm cánh diều của ông Cob. Mọi người đưa mắt nhìn
lên không trung và quên hẳn những nhọc nhằn của cuộc sống. Đó là quà tặng mà
người khốn khổ nhất của ngôi làng đã mang lại cho người đồng loại của mình.
Một tác giả nào đó đã nói: "Trái tim
không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng". Một
trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.
Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con
người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt
mòng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống
nhau, bởi vì người ta không thể cân lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất
phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng của
tiền của, mà ở quả tim được gói gém trong món quà.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy qủa tim mà một người
đàn bàgóa đã gói trọn trong một đồng xu nhỏ dâng cúng đền thờ. Nhân vật Cob
trong câu chuyện của người Rumani trên đây đã đặt tất cả con tim của mình vào
cánh diều để làm vui cho con người.
Một ánh mắt, một nụ cười, một lời nói an ủi,
một bàn tay nâng đỡ, đó là bao nhiêu quả tim mà con người có thể trao tặng cho
nhau. Và có thể là những món quà cao quý nhất mà những người xung quanh đang
chờ đợi nơi chúng ta.
19 Tháng Năm
Tôi Chết Thay
Cho Thầy Tôi
Một tu sĩ Hồi Giáo nọ quy tụ được 60 môn sinh.
Sau một thời gian giáo huấn họ, ông quyết định như sau: Ta thấy đã đến lúc phải
làm một cuộc hành trình mới. Ta không biết những gì sẽ xảy ra cho thầy trò
chúng ta. Các ngươi hãy tuân giữ các điều ta đã truyền dạy cho các ngươi. Hãy
nhớ điều này: trong bất cứ lúc nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô
lớn: "Tôi chết thay cho thầy tôi".
Đám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận
được một đề nghị xem ra điên rồ như thế, cho nên 59 người đã bỏ cuộc trở về với
nếp sống cũ của họ. Chỉ có một người chấp nhận điều kiện và quyết tâm đi theo
thầy mình cho đến cùng. Hai thầy trò lên đường mà không biết đi về đâu. Họ đi
mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Không bao lâu thì họ
vào thành phố, ông bạo chúa đã ra lệnh cho các binh lính như sau: "Các
ngươi hãy bắt giữ lấy tên du thử du thực đầu tiên và điệu đến đây cho ta. Ta
muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này".
Thế là bọn lính đã đến bắt người đệ tử của vị
tu sĩ và điệu đến trước mặt bạo chúa. Giữa lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu, thì
vị tu sĩ mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn: "Thưa quan lớn, xin hãy
giết tôi, vì chính tôi là người đã dụ dỗ thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống
kiếp sống lang thang như tôi". Nói xong ông giơ tay lên trời.
Vừa thấy cử chỉ ấy của vị thầy, người thanh
niên mới gào lên: "Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi".
Quan bạo chúa nghe thế, mới hỏi các viên cố
vấn của mình như sau: "Họ là ai mà sẵn sàng chết thay cho nhau?". Quan
bạo chúa mới cho điệu vị tu sĩ đến trước mặt và yêu cầu giải thích cho cặn kẽ
về mối tương quan giữa thầy trò.
Vị tu sĩ Hồi Giáo mới bình tĩnh phát biểu như
sau: "Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng bất cứ ai được giết trong
thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Dĩ nhiên, nghe biết như thế,
cho nên thầy trò chúng tôi mới hăm hở đến đây để được chết như thế".
Nghe thế, quan bạo chúa mới mỉm cười, rồi ra
lệnh trả tự do cho họ. Người môn sinh chợt hiểu được rằng ai hy sinh mạng sống
mình thì sẽ tìm lại được nó.
Cái chết của Đức Kitô trên thập giá đều là vô
nghĩa, nếu cái chết đó không phải là cái chết cho mọi người. Thập giá của Đức
Kitô sẽ chỉ là một ô nhục, nếu thập giá đó không là biểu trưng của tình yêu, sự
hy sinh.
Bước theo Đức Kitô trong cuộc tử nạn, vác lấy
thập giá và đi theo Ngài không là một việc làm nhiệm ý và tùy hứng, nhưng là
đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi Kitô. Con đường của Đức Kitô chính là con đường
của tình yêu, của hy sinh hiến thân cho người khác.
20 Tháng Năm
Kẻ Ăn Cắp Một
Ổ Bánh Mì
Người ta thường kể về một trong những ông thị
trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày
mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu
đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã
ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa
ra là: "Gia đình tôi đang chết đói".
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời
biẹn bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: "Luật
pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng
phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la". Vừa công
bố bản án, ông thỉntưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngwòi
đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: "Ông lão đã bồi thường
vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu
tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có
một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi
thu tiền vảtao tất cả cho ông lão.
Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và
trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Đức thánh Cha
Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu
có và Lazarô.
Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu
có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân.
Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong
việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.
Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó
là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện
ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự
đang tâm làm ngơ của người giàu có... Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ
của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động
hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì
người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.
Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không
là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng
thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của
chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì.
21 Tháng Năm
Đôi Cánh Con
Tuấn Mã
Hai người bạn thân ngồi bên nhau dưới một bóng
cây cổ thụ. Cả hai đều đưa mắt nhìn về cánh đồng trước mặt, nhưng mỗi người một
ý nghĩ.
Người có dáng vẻ đầy nghị lực, cái nhìn cương
quyết, thốt lên như sau: "Một cảnh vật phẳng lặng và độc điệu như thế này
quả thực là nhàm chán. Tôi sẽ rời bỏ ngôi làng nhỏ bé này để làm một vòng du
lịch cho biết đó biết đây".
Người bạn khác với dáng điệu mảnh khảnh ít
nói, mỉm cười nhìn vào phong cảnh xung quanh rồi nói: "Tôi cũng có một con
tuấn mã. Từ bao lâu nay, tôi đã đi lại không biết bao nhiêu nơi rồi".
Hai người chia tay nhau và hẹn cũng gặp lại
dưới bóng cây cổ thụ để kể cho nhau nghe những cuộc du lịch của mình.
Sau một năm, họ lại gặp nhau... người thứ nhất
kể chuyện: "Trong một năm qua, hầu như nơi nào tỗimcung đã đặt chân đến. Tôi
đã đi xuống biển, lên ngàn, vượt đèo, qua suối. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu
người. Tôi đã học được bí quyết kiếm được nhiều tiền... Giờ đây, tôi trở nên
giàu có. Tôi sẽ tiếp tục đi du lịch... Còn bạn, bạn đã đi được nơi nào trong
suốt năm qua?".
Người bạn chưa từng rời bỏ ngôi làng của mình
đã trả lời: "Tôi đã lên trời, tôi đã bay lượn trên các tầng mây. Tôi đã
đến đô thị của mặt trời". Nghe thế, người kia thắc mắc: "Phải chăng
con tuấn mã của anh bay được?". Con người có tâm hồn thi sĩ trả lời:
"Đúng thế, con ngựa của tôi có đôi cánh. Nó đưa tôi lên tất cả những nơi
nào tôi muốn. Mắt tôi nhìn thấy được muôn kỳ công của vũ trụ. tai tôi nghe được
muôn điệu nhạc của thiên nhiên... Đối với anh, sự giàu có nằm trong của cải
vàng bạc. Nhưng đối với tôi, của cải chính là đôi mắt của tâm hồn tôi. Cho dẫu
một năm qua, tôi chỉ ngồi dưới bóng cây cổ thụ này, cho dẫu quang cảnh trước
mặt tôi chỉ là cánh đồng phẳng lặng này, nhưng tâm hồn tôi nhìn thấy muôn nghìn
cảnh đẹp của thiên nhiên, tai tôi có thể nghe được bao nhiêu điệu nhạc của
thiên nhiên mà anh không thể nghe được".
Người có tâm hồn nghệ sĩ có những rung cảm mà
người khác không có. họ nhìn thấy, họ lắng nghe được những điều mà người khác
không cảm nhận được. Cũng thế, người có đôi mắt Đức tin cod thể nhìn thấy các
giá trị mà người khác không nhìn thấy. Đôi mắt Đức tin giúp chúng ta cảm nhận
được sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong vũ trụ, trong lịch sử, trong
con người. Đôi mắt Đức tin ấy giúp chúng ta thấy được giá trị của cuộc sống độc
điệu, của những hy sinh âm thầm hằng ngày. Đôi mắt Đức tin ấy giúp chúng ta
thấy được lẽ khôn ngoan trong những điều người đời cho là điên dại, sức mạnh
trong những cái yếu đuối. Đức tin ấy giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng trong tăm
tối, sự sống trong cái chết, ân sủng trong tội lỗi.
22 Tháng Năm
Thiên Chúa Tạo
Dựng Con Người
Người Ấn Độ thường kể câu chuyện ngụ ngôn về
việc sáng tạo con người như sau: Một hôm Thiên Chúa quyết định tạo dựng con
người, nghĩa là làm một tạo vật đẹp nhất giữa các tạo vật. Dĩ nhiên, khi Thiên
Chúa vừa công bố quyết định, các Thiên thần đã tỏ ra không mấy hồ hởi, một phần
vì ganh tị, một phần vì không thể chấp nhận được một ý tưởng xem ra quá kỳ cục
ấy. Làm sao tưởng tượng được một thụ tạo vừa thuộc về hạ giới, lại vừa tham dự
vào đời sống thần linh. Làm sao có được một hữu thể vừa là một mảnh của thời
gian, lại vừa mang tính vĩnh cửu? Làm sao chấp nhận được giữa vật chất và tinh
thần?
Các Thiên Thần không thể tưởng tượng được rằng
Thiên Chúa có thể tạo dựng được một tạo vật như thế. Các vị e ngại rằng ý tưởng
ấy sẽ hạ giảm quyền năng và sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa.
Để ngăn chặn Thiên Chúa trong ý định của Ngài,
các Thiên Thần mới bầu ra một ủy ban. Sau nhiều ngày ráo riết làm việc, ủy ban
đã soạn xong một kiến nghị đệ trình lên Chúa gồm những điểm như sau: tinh thần
không thể kết hợp với vật chất, bản tính thiên thần không thể kết hợp với bản
tính thú vật, cái có cùng không thể hòa hợp với cái không cùng, cái chóng qua
đi không thể đi đôi với điều vĩnh hằng, do đó yêu cầu Thiên Chúa hãy từ bỏ ý
định điên rồ của Ngài.
Sau khi đọc kỹ bản kiến nghị, Thiên Chúa đưa
ra phán quyết như sau: "Tất cả những góp ý của các người đều hợp lý. Nhưng
điều ta sắp thực hiện không phải là một vấn đề triết học". Các Thiên Thần
đều nhao nhao hỏi: "Vậy thì vấn đề đó là gì?". Sau một hồi thinh
lặng, Thiên Chúa chậm rãi đáp: "Con người là vấn đề của Niềm Tin". Ngài
thinh lặng, rồi phán quyết: "Con người là vấn đề của Niềm Tin".
Trong một xã hội được xây dựng trên luật của
cá lớn ăn hiếp cá bé, trong một xã hội mà nền tảng đã bị đục khoét bởi lọc lừa,
gian trá, phản bội, đố kỵ, hận thù, con người dễ mất đi niềm tin nơi con người,
bởi vì khi không tin ở người, con người cũng không còn tin ở chính mình. Một
cuộc sống như thế chẳng khác nào một cuộc tự hủy, một cuộc tự sát tập thể.
Thiên Chúa yêu thương mọi người. Ngài tiếp tục
tin tưởng nơi con người, Ngài cũng mời gọi chúng ta tin tưởng nơi con người... Thay
vì tự giam hãm trong khép kín, trong đố kỵ, chúng ta hãy ra khỏi chính mình để
đến với người... Đến với người bằng sự thông cảm tha thứ, cho dẫu chúng ta chỉ
gặp toàn những lừa đảo phản bội. Đến với người bằng những san sẻ sớt chia, cho
dẫu chúng ta chỉ toàn gặp những bội bạc, vong ân. Đến với người bằng tiếng cười
rộn rã, cho dẫu chúng ta chỉ gặp toàn đắng cay, sầu muộn.
23 Tháng Năm
Chết Vì Niềm
Tin
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư
Hungari và xin được được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng
trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến
thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên
sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: "Ông
biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám
dân nghèo, để giúp những giàu dễ dàng kiềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây
giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin
rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa".
Vị mục sư cười và trả lời rằng: "Ông bạn
ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật". "Ông đừng có lừa dối tôi,
cũng đừng giễu cợt tôi", vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng
lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa: "Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một
sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng".
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời: "Tôi không
thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa".
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn và chạy
đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: "Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng
tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin
cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn Ngài. Ngài đã củng
cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã
chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được".
"Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng:
chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng trong niềm tin là
ơn gọi của mọi tín hữu".
Cộng đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên
mới, đã mang đến cho hội thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và
tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động: Sống đạo và
Hành đạo. Nhờ quan niệm này, Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong
những giờ kinh, nhưng Đạo và Niềm tin đã được đem ra Sống và Thức hành trong
mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây ra nhiều thắc mắc
vẫn là: sống niềm tin và thực hành trong niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa
tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu này có một
chương trình để dẫn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn
hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là
tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?
24 Tháng Năm
Lòng Tham
Không Đáy
Hôm ấy, trời vừa rạng đông, một ông hoàng nói
với tên đầy tớ: "Xem chừng anh mơ ước giàu lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc
mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn anh chạy
vòng quanh được, tôi vui lòng nhường lại cho anh hết".
Sướng quá! Cha chết sống lại cũng không bằng.
Tức thì chàng cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như
Hạng Vũ trên lưng con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng ta làm
chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một khu rừng mơn
mởn hiện ra trước mắt cám dỗ chàng. Không kịp thở, chàng lại cắm đầu chạy tiếp,
chạy một vòng dài nữa.
Vừa dừng chân, lại một hồ cá mênh mông, với
mặt nước trong ngần, huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Lại một vòng
nữa... Sau cùng, màn đêm đã phủ xuống trên nẻo đường đi. Chàng hổn hển quay
bước trở về nhà, để làm bậc tỉ phú với "Ruộng vườn mặc sức chim bay, biển
hồ lai láng mặc bầy cá đua".
Nhưng vừa bước chân qua ngưỡng cửa, chàng ngã
lăn xuống đất bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc... Nhưng vô hiệu. Nhà
tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá sức. Người ta đào cho
chàng một chỗ nghỉ trong lòng địa cầu, vừa dài vừa rộng, nhưng không quá ba tấc
đất.
Điểm qua những câu chuyện cổ kim về lòng tham,
chúng ta rút ra được bài học gì?... Chắc có người tự hỏi: sống trong thời củi
quế gạo châu, chạy ăn từng bữa này làm gì có nhiều của mà tham với lam. Như
những anh ăn mày cũng gắn bó với manh chiếu rách, với chiếc áo tơi đến độ có
thể "ăn thua đủ" với những ai đánh cắp.
Lòng tham không cần bị nhiều cám dỗ mới nổi
tính tham. Vì thế đức tính đầu tiên chúng ta cần phải tập là tinh thần từ bỏ,
dùng của cải như những phương tiện chứ không phải như mục đích. Bước thứ hai là
tập cho có quan niệm: chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là chủ
nhân những của cải vật chất và có như thế chúng ta mới dễ dàng tiến thêm bước
thứ ba: sẵn sàng chia sẻ với những người cần thiết hơn. Không cần phải đợi có
tiền muôn bạc vạn mới chia sẻ. Hạt muối cắn hai mới thật sự sưởi ấm lòng người
và công đức trước mặt Thiên Chúa.
25 Tháng Năm
Cái Bật Lửa
Để kỷ niệm một trận chiến, một quận công bên
Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu
sát cánh bên ông.
Tong bữa tiệc, ông dem kho một cái bật lửa rất
đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã được truyền từ tay người
này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách
để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc lá ra mời mọi người. Nhưng mặt ông
bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa.
Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp
nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan
mới đề nghị cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của mình ra may ra mới có
thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có
trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chịu chấp nhận công việc
này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắc đây là người đã
đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tụy, áo quần của ông lại rách
rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt khóat không mở túi
áo ra cho mọi người xem.
Vài tuần lễ sau, ông quận công lại mở một bữa
tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm
thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh
mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.
Nhà của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố
lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công đã hỏi viên sĩ quan:
"Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã khước từ không mở túi ra cho mọi
người xem?".
Anh ta mới giải thích như sau: "Hẳn ngài
đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp
mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã
nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con
tôi".
Sau khi hiểu được hoàn cảnh đáng thương của
một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận công quyết định đền bù bằng
cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng đáng.
Câu chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng
diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng
tựu trung, có lẽ mẫu số chung của câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng
dễ nhìn và đoán xét người theo bề ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa
gạt đảo điên cũng khiến cho chúng ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những
người thân thuộc.
Là tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách
cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không
đến với người bằng những định kiến. Bên kia bộ quần áo sang trọng hay rách
rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành
yêu thương cho những người nghèo khổ, phường thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ
tội lỗi, những ngwòi con bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn cho mọi người thấy
rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con người: đó là cái nhìn của cảm
thông, của tha thứ, của yêu thương.
26 Tháng Năm
Sức Mạnh Lời
Chúa
Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm
tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man
không thể tưởng tượng nổi.
Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả
trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp
và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ
công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện
của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ
với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.
Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra
về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ
đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.
Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện
trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc,
đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: "Lạy Cha, xin Cha
tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", đã thắng sự chống trả
cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: "Đọc đến câu này
tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con
dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là
lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự
hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin".
Ông Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên
trong quyển sách mang tựa đề "Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo"
đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam
có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân
hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát
nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể
biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi
Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác
bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi,
những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã
hội.
27 Tháng Năm
Thế Giới Trong
Tăm Tối
Một cuốn phim mang tựa đề: "Thế giới
trong tăm tối" diễn tả câu chuyện một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức cuộc
khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Calvariô được cẩn thận đào bới, kể cả
những phiến đá và hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò,
khám phá kỹ lưỡng, vì theo Phúc Ăm thánh Gioan, xác của Chúa Giesu được chôn
cất trong một phần mộ gần nơi ngài bị xử án tử hình thập tự.
Sau bao công khó đào xới, khám sát, một ngày
kia nhà khảo cổ tuyên bố: "Tôi đã tìm được xác ông Giêsu" và ông tổ
chức một cuộc họp báo rầm rộ với nhiều phóng viên và nhiếp ảnh viên, dể trình
bày thành quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào xới, khảo cứu vất vả. Ông đã trưng
dẫn trước mắt mọi người một xác đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra tay chân
của xác này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu, có cả những dấu chứng tỏ thân
xác này bị nhuộm máu qua những tấm khăn quấn liệm xác.
Cuốn phim quay cảnh mọi người im lặng theo dõi
lời thuyết trình của nhà khảo cổ, tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng:
"Đây là một sự thật hiển nhiên: ông ta đã bị đóng đinh, chết và được xác
táng". Và nhà khảo cổ tiếp lời: "Vâng, đúng thế, chết và được an
táng, nhưng... làm gì có chuyện phục sinh. Xác ông ta vẫn còn nằm đây".
Tiếp đến cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc
tìm được xác ông Giêsu của nhà khảo cổ này: không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa,
một vị linh mục tắt ngọn đèn chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nguyện
đường, chuông các nhà thờ im tiếng, các nữ tu cởi khăn trùm đầu, thánh giá tại
nhiều nơi bị hạ xuống, đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt. Bóng tối chìm đắm
trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc bằng cảnh chính nhà khảo cổ
đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: "Tôi
đã đánh lừa thế giới, chính tôi đã làm xác giả của ông Giêsu và bí mật đặt vào
trong mộ mấy năm trước khi tôi khởi sự đào bới tìm xác Ngài".
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người
tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hằng năm trong tuần
thánh. Những ngọn nến được thắp lên và những tín hữu đã mang những ngọn nến
được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng, đi khắp nơi để soi sáng những con
đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin: Chúa Giêsu đã Phục
Sinh, tình yêu mạnh hơn hận thù, sự sống mạnh hơn cái chết.
Cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên
hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của
toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, đến lòng tin và
niềm hy vọng của chúng ta.
Chúng ta hãy chung lời cầu nguyện cho nhau và
với nhau để mỗi người trong chúng ta được cùng chết, cùng an táng với Chúa
Giêsu cho con người cũ ích kỷ và tội lỗi của chúng ta. Chết thật sự để chúng ta
cùng sống lại với Chúa Giêsu trong một con người hoàn toàn mới, con người Phục
Sinh.
28 Tháng Năm
Người Tín Hữu
Cuối Cùng
Tiểu thuyết gia Graham Greene thuật câu chuyện
ông dự định viết như sau:
Đây là một chuyện giả tưởng sẽ xảy ra trong
tương lai rất xa, khi toàn thế giới chỉ còn được thống trị do một đảng duy nhất.
Cảnh đầu tiên ở trong câu chuyện diễn ra trong một khách sạn nhỏ vào lúc màn
đêm đã bao trùm vạn vật. Một người khách già nua, mệt nhọc, xốc xếch trong
chiếc áo đi mưa đã phai màu, mang một chiếc xách tay tiến vào khách sạn, xin
thuê một phòng. Ông ta viết tên họ, nghề nghiệp và địa chỉ vào bản lý lịch và
chệnh choạng đi lên phòng. Người quản gia nhìn vào bản lý lịch và buộc miệng
hỏi anh thư ký:
- Anh có biết ai đấy không?
- Làm sao tôi biết được. Anh thư ký trả lời.
- Đức Giáo Hoàng đấy! Người quản gia quả quyết
để anh thư ký tròn xoe đôi mắt hỏi vặn lại: Đức Giáo Hoàng? Đức Giáo Hoàng là
gì?
Đạo công giáo lúc ấy đã bị tiêu diệt hoàn
toàn, chỉ còn Đức Giáo Hoàng là người duy nhất được sống sót. Mạng Ngài còn
được dung tha vì hai lý do: thứ nhất, đẻ chứng minh cho chính Ngài và cho mọi
người là Giáo Hội đã chết và thứ hai, để theo dõi xem có tín hữu nào còn lần mò
đến để tiếp xúc với Ngài không.
Khi đã biết chắc chắn 100% là duy có Ngài là
độc nhất còn mang đức tin công giáo, nhà độc tài cho độ Ngài đến và tự tay lảy
có súng, kết liễu cuộc đời người tín hữu cuối cùng. Nhưng trong giây phút, giữa
lúc bóp cò và Đức Thánh Cha chết, một ý tưởng lóe ra trong đầu óc nhà độc tài:
Có thể điều này ông tin lại có thật, thì sao?
Xuyên qua đời sống tính nhân của các tín hữu,
có thể những người xem thấy đời sống chứng tá của họ tự hỏi: Tại sao họ lại
sống như thế? Tại sao họ không chạy theo trào lưu, sống như nhưng kẻ khác, thời
bây giờ ai lại không mánh mum lừa đảo, chợ đen chợ đỏ, v.v...? Lý tưởng nào hay
ai đã ghi hình ảnh trên họ? Tại sao họ lại sống ở giữa chúng ta? Như thế đời
sống chứng nhân đã là một sự tuyên xưng thầm lặng của tín hữu, nhưng nó rất
mãnh liệt và hữu hiệu. Đó là những lời phát biểu của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô
VI trong lời giáo huấn của Ngài mang tựa đề "Truyền giáo trong xã hội tân
tiến", Chúa Giêsu đã khẳng định: "Các con là muối đất",
"Các con là ánh sáng thế gian". Ngài gọi những tín hữu như thế với
lòng xác tín là họ xứng đáng để phơi bày và chia sẻ cho anh chị em đang sống
bên cạnh.
29 Tháng Năm
Đỉnh Cao
Đỉnh Everest cao nhất thế giới của dãy Hy Mã
Lạp Sơn như có một ma lực hấp dẫn những người leo núi thiện nghệ. Ai đã vướng
vào môn thể thao leo núi xem đó như là một giấc mơ, nếu ngày nào đó họ đặt được
chân trên đỉnh núi cao 8,880 thước, quanh năm phủ tuyết này, nhưng chỉ có một
số ít người thực hiện được giấc mộng ấy và rất nhiều người đã bỏ mình dọc theo
con đường lên đỉnh.
Trên những con đường ấy, người ta thấy hai bia
mộ ghi những dòng chữ sau đây: bia thứ nhất đề "Họ thấy được lần cuối cùng
trong lúc gắng sức leo lên". Và bia thứ hai tưởng niệm một huấn đạo viên
chỉ viết vỏn vẹn một câu "Ông ta chết trong lúc đang leo".
Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu không ngừng
thì để sống đạo và hành đạo cũng thế. Điều quan trọng không phải là thành công
hay thất bại, mà là chỗi dậy và tiến bước. Phải gọi là thẳng tiến thì đúng hơn,
vì câu tâm niệm của các Kitô hữu phải là: "ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm
qua, nhưng kém hơn ngày mai".
Bí quyết thành công thứ hai là không bao giờ
chúng ta nên đi trên con đường nên thánh một mình, hãy noi gương những người đi
trước, những thánh nhân và hãy cùng nhau tiến bước. Và nhất là hãy đi vào những
vết chân Chúa Giêsu đã để lại.
30 Tháng Năm
Một Chỗ Khủng
Khiếp
Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên Liên Xô.
Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe diễn
ra tại đó, nơi bà gọi là "Một chỗ khủng khiếp" như sau: Một buổi
chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kề miệng vào tai tôi khẽ
nói: chị biết mai là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp:
"Mai là ngày lễ Phục Sinh".
Nghe thế, tôi tự hỏi: "Lễ Phục Sinh đã
đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của chúng tôi
đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng?...". Tôi đi lại trong phòng và
không dám suy nghĩ tiếp.
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Đức Kitô đã sống lại thật".
Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Đức Kitô đã sống lại thật".
Quá sức sửng sốt, các nhân viên trở nên bất
động như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn tiến
không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề
tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân
viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi
cô ta sền sệt ra khỏi phòng.
Một tuần lễ sau, cô ta được thả về phòng giam,
mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục Sinh, người ta đã
biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấu xương và cơn đói
hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc
phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: "Dù sao tôi cũng đã
tuyên xưng niềm tin vào sự Phục Sinh trong trại giam. Những cái khác không quan
trọng gì cho lắm". Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn
lóe sáng lên như dạo nào.
Được dịp tuyên xưng niềm tin Phục Sinh cách
đặc biệt như cô gái trên thật hiếm hoi. Nhưng mẫu gương can đảm của cô phải
nhắc nhở chúng ta cố gắng thực thi lời nguyện chúng ta luôn cùng nhau xướng lên
sau những lời truyền phép: "Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và
tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho đến khi Chúa lại đến".
Tuyên xưng việc Chúa sống lại bằng cách hiểu
rõ ý nghĩa và giá trị của sự chết, của những đau khổ, của những vấn đề khó
khăn. Cuộc sống của chúng ta không chỉ đóng khung và chấm cùng tại đó. Nhưng
người mang niềm tin Phục Sinh phải chiến đấu để vượt qua, để lướt thắng những
khó khăn, hạn chế những đau khổ, những sự dữ, những tội lỗi, để phát huy cuộc
sống mới của những tạo vật được tái sinh nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Chúa
Kitô.
31 Tháng Năm
Lòng Tốt Của
Mẹ
Dạy Con
Muốn Tiếp Tục Sống
George Washington, một trong những nhà anh
hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối
với mẹ mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.
Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.
Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối
với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng
giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?".
Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau:
"Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất
giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục
sống".
Hôm đó, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh
Ysave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.
Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm
người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó
là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy
đã củng cố niềm tin của bà Ysave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ
cho Gioan Tẩy giả.
Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến
dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ,
để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.
Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày
nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống
chúng ta.
Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm
bà Ysave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để
tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho
chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian
này.
Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc
tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa
vào ai, chúng ta hãy chạy đến với mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể
chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ.
Đó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng
đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét